🀄 Nhận Định Về Kim Lân

(4,0 điểm) Về truyện ngắn Vợ nhặt của Kim lân, đã có nhận xét: "Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu thì con người vẫn giàu yêu thương, khao khát hạnh phúc và hi vọng vào tương lai.". Bằng hiểu biết về truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015), anh/chị hãy chia sẻ ý Sản phẩm dưới tay của những người nghệ nhân được đúc tỉ mỉ và những đường nét tinh xảo. hay đền chùa được sử dụng hai vật phẩm này để trưng bày trên ban thờ. Sản phẩm dưới tay của những người nghệ nhân được đúc tỉ mỉ và những đường nét tinh xảo Nhà văn Kim Lân đã nói về truyện ngắn Vợ nhặt: "Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống". Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang Ngày 16-11, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà văn Kim Lân (1920-2020) - nhà văn, diễn viên, người có những tác phẩm để đời, được bạn đọc nhiều thế hệ yêu mến và ghi nhớ. Đông đảo văn nghệ sĩ, đại diện gia đình nhà văn Kim . "Lắm lúc tôi thấy văn chương là một thứ đạo, đạo làm người, như một thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người với con người, đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái. Mỗi người truyền một cách, nhưng cuối cùng con người vẫn thương yêu nhau và làm LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 20 2.1 Tổng quan tình hình nh? ?n tố ảnh hưởng đ? ?n v? ?n đề pháp luật điều chỉnh phương thức giải tranh chấp trọng tài. .. 2.3.1 Thực ti? ? ?n thực quy phạm pháp luật giải. phương tiện khc c khả năng st thương; đồ vật.bao gồm:- 29 thnh phố: Yn Bi. Thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhn trong một số trường hợp đặc biệt 1.người c nhược điểm về tm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật Tố tụng hnh sự 2022.Gim đốc hoặc Tổng gim đốc cng ty l người điều hnh hoạt Tuyển tập dàn ý và các bài văn nghị luận Cảm nhận truyện Vợ nhặt của Kim Lân ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Seri văn mẫu 12 với hơn 1000 bài viết được tuyển chọn từ các bài văn hay của học sinh, giáo viên trên cả nước. - Hai nhận định trên về truyện ngắn "Vợ 4. Những nhận định về Kim Lân và tác phẩm của ông - Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với "đất" với "người" với "thuần hậu nguyên thuỷ" của cuộc sống nông thôn. - Nguyên Hồng - Nhà văn dùng "Vợ nhặt" để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. kFRfb0a. . “Lắm lúc tôi thấy văn chương là một thứ đạo, đạo làm người, như một thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người với con người, đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái. Mỗi người truyền một cách, nhưng cuối cùng con người vẫn thương yêu nhau và làm cho con người có tư cách, có nhân phẩm, tài năng để đánh giá đúng và chống lại bạo ngược, cường quyền, áp bức”. Nhà văn Kim Lân . “Dùng lý lẽ để thuyết phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho người ta không giữ được chính mình. Nói một cách khác hết sức mềm mại thì người cầm bút phải viết như chơi, viết thoải mái bằng tấm lòng của mình, hướng vào cái thật, cái đẹp, giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình, phải dám lên tiếng nữa”. Nhà văn Kim Lân . “Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái nền là sự thật”. Nhà văn Kim Lân . “Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đòn bẩy để nâng con người lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã loé lên những tia sáng ấm lòng”. Trần Đồng Minh . “Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945”. Vũ Dương Quỹ . “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”. Trích “Nhà văn nói về tác phẩm”, Hà Minh Đức . “Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời... Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn truyện ngắn”. Trần Ninh Hồ . “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”. Nguyễn Khải 9. " Chỉ với ba truyện ngắn Làng, Vợ Nhặt , Con chó xấu xí nhà văn Kim Lân đã đường hoàng ngồi chiếu trên trong làng văn Việt Nam" Nguyễn Khải Cre Thưởng Thức Sách Theo Nguyên Hồng, “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” và “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của đời sống nông thôn”. Bằng lối viết chỉn chu, tinh tế, các tác phẩm của ông có giá trị bền bỉ, đặc sắc trên hai phương diện văn học và nghệ thuật. Kim Lân đã cống hiến trọn đời cho nền văn học mới, tuy viết không nhiều nhưng các sáng tác của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc. Với sự quan sát tỉ mỉ và suy ngẫm nên nhà văn hiểu rất rõ cuộc sống cơ cực ở những vùng nông thôn Việt Nam thời bấy giờ. Vài nét về tiểu sử của nhà văn Kim Lân Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1921 tại làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là cây bút chuyên viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm của một người vốn là con đẻ nơi đồng ruộng. Vốn sinh ra trong một gia đình vô cùng khó khăn, ông đã phải đi làm phụ giúp gia đình ngay khi mới học xong bậc tiểu học. Khi đó, dù tuổi còn nhỏ nhưng ông đã rất chăm chỉ và chịu khó, kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như khắc tranh bình phong, sơn guốc. Ông bén duyên với nghệ thuật từ năm 1941 khi tác phẩm của ông được đăng trên các báo Trung Bắc chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy. Năm 1944, Kim Lân tích cực tham gia phong trào cách mạng và gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Sau khi Cách Mạng tháng Tám thành công, ông tiếp tục viết văn và làm báo. Những trang viết của Kim Lân đều thấm đẫm hương vị yên bình của làng quê Việt Nam, thơm thơm mùi lúa mới, bảng lảng những cánh cò chao liệng chiều chiều. “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc.” – Kim Lân Về bút danh Kim Lân, sở dĩ ông chọn tên này là vì mê mẩn nhân vật Đổng Kim Lân trong vở tuồng Sơn Hậu, một vai mà ông đã từng diễn. Đây là vở tuồng cung đình kinh điển của Việt Nam, thường được các đoàn hát bội trình diễn trong Lễ Kỳ yến tại các đình làng. Ông là người có vốn sống dày dặn và phong phú, bên cạnh chủ đề về người nông dân lam lũ cực khổ, nhà văn còn rất thành công khi tái hiện lại những nếp sống sinh hoạt, các trò chơi dân gian vô cùng tao nhã, sinh động ở thôn quê như đánh vật, chọi gà, thả chim. Những viên ngọc quý trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân Sự nghiệp văn chương của ông tuy không đồ sộ, chủ yếu là truyện ngắn nhưng lại mang nét riêng biệt mà chỉ Kim Lân mới có. Đó là chất “quê” dân dã và gần gũi với những người dân lao động giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Với phương châm “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, các tác phẩm của ông tuy ít nhưng đặc sắc, có sức sống lâu bền, làm giàu thêm cho văn chương, tâm hồn Việt. Hai truyện ngắn điển hình Làng và Vợ nhặt đều được dùng cho chương trình giảng văn phổ thông trên cả nước. Đến với truyện ngắn Làng, độc giả cảm nhận được tình yêu nước đặt lên trên hết thảy của Kim Lân. Bối cảnh lịch sử và tâm lí nhân vật chính được lấy nguyên mẫu từ trải nghiệm của nhà văn, bởi vậy nó chân thực và mang đến những rung động sâu sắc. Cốt truyện đơn giản nhưng sức nặng tác phẩm dồn vào mạch diễn biến tâm lí nhân vật, thể hiện trọn vẹn sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút Kim Lân. Ông để lại trong tâm trí độc giả những ấn tượng khó quên, bình dị mà đặc sắc, tài hoa, khó bị trộn lẫn. “Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp một vẻ riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, những con người bình thường và những điều tốt đẹp của họ lòng yêu làng, yêu nước được khơi dậy và hoàn thiện để ngày càng đẹp đẽ.” – Trịnh Bích Ba Đến với Vợ nhặt, nhà văn lại dùng tác phẩm để làm đòn bẩy nâng cao nhân cách con người trong hoàn cảnh khốn cùng. Cái nghèo ở tác phẩm Ngô Tất Tố, Nam Cao khiến người ta thương cảm, cái đói, cái chết ở tác phẩm Kim Lân lại khiến khiếp sợ, rụng rời. “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm…Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” – Kim Lân Ngoài hai tác phẩm tiêu biểu kể trên, Kim Lân còn để lại cho đời nhiều hạt ngọc văn chương khác, góp phần tô điểm hương sắc cho đời, giúp cho cái nhìn của độc giả ngày một phong phú hơn như Con chó xấu xí, Đứa con người vợ lẽ, Chó săn, Cô Vịa. “Chỉ với ba truyện Vợ Nhặt, Làng, Con chó xấu xí… Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam.” – Hoài Việt Kim Lân viết ít nhưng mỗi tác phẩm lại chứa đầy bản lĩnh, sự tỉnh táo, thể hiện thái độ hết sức nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật. Ông để lại ấn tượng về sự lịch lãm, thấm sâu văn hóa làng quê, thấu hiểu bài học làm người. Kim Lân và những vân chữ khác lạ trong văn chương Ông thành công với những trang viết về nông thôn, nơi những tên tuổi lớn như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đã khai thác gần như hết mọi khía cạnh. Tuy vậy, ngòi bút Kim Lân vẫn có màu sắc riêng, bản sắc riêng, khó nhầm lẫn và không phôi phai với thời gian. Nếu các cây viết khác cùng đề tài thường đề cập đến những người nông dân nghèo khốn khổ, cùng đinh, lam lũ thì người nông dân của Kim Lân lại toát ra một nét gì đấy rất hào hoa, phong lưu với thú chơi chim, chọi gà, đánh vật, chơi pháo, đánh võ. “Con người Kim Lân cũng là một đặc biệt. Còn quan niệm nghệ thuật của Kim Lân nhiều khi là những quan niệm có tính khởi đầu cho cả một đời sáng tác, có tính nền tảng cho việc xây dựng một phương pháp sáng tác, một trào lưu nghệ thuật mà lại thường được thể hiện rất bình dị, nhẹ nhàng.” – Vũ Quần Phương Làng quê và con người trong văn chương ông không tối tăm như chị Dậu trong Tắt đèn, không bần hàn như anh Pha trong Bước đường cùng mà mang những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa. “Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi, gân guốc, cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ…Tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài như thời Nghiêu Thuấn.” – Con mã mái Kim Lân Là một văn sĩ người Bắc Ninh, quê hương của tiếng hát quan họ ngọt ngào nên Kim Lân có một phong cách nghệ thuật riêng so với các cây bút cùng thời. Văn ông nhỏ nhẹ, chậm rãi, giàu xúc cảm, như cất lên từ những làn điệu quan họ mượt mà, đằm thắm, ý nhị và sâu sắc. “Lúc bấy giờ đã nhá nhem mặt người, cảnh vật chìm trong bóng chiều. Hình như không để ý đến cảnh vật, đến tiết trời cuối thu lạnh lẽo, một người rẽ vào con đường viền găng đi thẳng vào cửa chùa Dận với một dáng vẻ ung dung, nhàn tản.” – Trả lại đòn Kim Lân Giọng văn mềm mại của ông như được hình thành từ nương dâu gốc lúa, từ phù sa con sông Đuống thơ mộng hiền hòa. Vì lẽ đó mà nhà văn Nguyễn Khải đã coi Kim Lân là nhà văn có tài thiên phú, là thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ. Đặc biệt, “quý hồ tinh bất quý hồ đa” là phương châm nghệ thuật mà Kim Lân suốt đời theo đuổi, một quan niệm vô cùng nghiêm túc của ông đối với nghề viết. Do đó những con chữ trong văn phong người nghệ sĩ ấy không khô khan, gượng ép mà luôn bay bổng, thảnh thơi. “Nhà văn Kim Lân viết không nhiều và chuyên về một thể loại, lại “gác bút “sớm nhưng dấu ấn của ông để lại trong lòng độc giả thì rất sâu đậm. Chỉ với 3 thiên truyện Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí.. câu chữ của Kim Lân “gan lì” thách thức thời gian, đi vào chỗ sâu nhất của tâm trí người đọc.” – Lê Thành Nghị Nhớ đến “quý hồ tinh bất quý hồ đa” là nhớ về Kim Lân. Sự nghiệp văn học của ông không có quá nhiều tác phẩm nhưng rất đặc sắc và khó trộn lẫn như Nên vợ nên chồng, Đứa con người cô đầu. Những điều viết ra đều từ gan ruột, từ chắt lọc trong suy nghĩ chứ không bừa bãi, xô bồ. “Giờ đây, nhìn lại thì thấy những tác phẩm của nhà văn Kim Lân không đồ sộ. Ngoài những tác phẩm cho người lớn, ông có viết một vài truyện cho thiếu nhi, và một số bài viết về bạn văn, nghề văn. Nhưng Kim Lân là vậy. Khi đã lên tới đỉnh của sự nghiệp, ông biết nên dừng lại.” – Hoàng Thu Phố Điều đáng quý ấy khiến cho các tác phẩm của Kim Lân trở nên xúc động hơn, đặc sắc hơn, hồn cốt của tình người được làm nổi bật chứ không phải những xung đột hay kịch tính dữ dằn. Văn sĩ chỉ viết những gì mình thuộc, mình biết chứ không tuyên ngôn phô trương ồn ào. Ông chỉ muốn làm một người viết khiêm nhường, cháy bỏng với tình yêu văn học và hết lòng vì nghiệp viết. Người họa sĩ tài ba của làng quê Việt Nam Là người con của đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa, lại chịu khó quan sát và suy ngẫm, được đi nhiều nơi, thăm thú nhiều chỗ nên Kim Lân có một vốn sống dày dặn về các làng quê Việt Nam xưa. Ông xây dựng hình tượng người nông dân khỏe khoắn, chất phác và đôn hậu. Những thú phong lưu của đồng ruộng khi thể hiện qua ngòi bút Kim Lân lại trở nên dân dã, bình dị với người lao động ở vùng quê đất Việt. Nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt là người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng giàu niềm tin vào cuộc sống. Cái dáng “lọng khọng” đi vào ngõ, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng” lại “vừa đi vừa húng hắng ho” khiến độc giả không khỏi rưng rưng xúc động. Còn có ông Hai “đáng yêu” trong truyện ngắn Làng, đi đâu ông cũng kể về làng Chợ Dầu của ông, khoe cho thỏa cái miệng và nỗi nhớ trong lòng, hầu như không quan tâm xem người nghe có hưởng ứng câu chuyện của mình. “Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.” – Làng Kim Lân Những thú phong lưu đồng ruộng cũng được Kim Lân khắc họa sinh động như hội vật đền Đô trong truyện ngắn Ông Cản Ngũ, thú chơi cây cảnh tao nhã trong Con mã mái, thú chơi chim nức tiếng của Trưởng Thuận ở Đôi chim thành. “Nhân vào ngày không có hội nào, các tay ăn chơi sành sỏi đến chơi nhà ông Trưởng rất đông. Họ cười nói xôn xao cả năm gian nhà khách. Ai cũng tỏ ý bất mãn về quần chim của ông Trưởng bị đánh hỏng ở hội Đại Đình hôm vừa qua.” – Đôi chim thành Ông rất thành công khi khắc họa vẻ đẹp chân quê bình dị, phong tục độc đáo nơi thôn làng Bắc Bộ. Nhà văn dành cả đời để khám phá, sáng tạo về cuộc sống của người nông dân nghèo khổ với nếp sống thanh bạch, nhân nghĩa được tích tụ từ ngàn đời. Giá trị nhân đạo thấm đẫm qua từng trang viết Những tác phẩm của Kim Lân có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc, được tạo nên bởi niềm cảm thông của tác giả đối với nhân vật của mình. Ông thấy cuộc sống tối tăm của người dân lao động và xúc động trước khao khát mãnh liệt của họ. Với Vợ nhặt, nhà văn bộc lộ rõ cảm xúc xót xa đối với kiếp người thê thảm trong nạn đói lịch sử, xác người chưa kịp chôn cất nằm ngổn ngang, tiếng quạ cứ gào lên thê thiết, những đứa trẻ con ngồi trong xó đường không buồn nhúc nhích. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, tình người vẫn luôn bừng sáng, sưởi ấm khung cảnh ảm đạm thê lương. Niềm tin sâu sắc về tương lai, về sự đổi đời được tác giả gửi gắm hết sức tinh tế qua mỗi nhân vật. Anh cu Tràng tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng tiềm ẩn bên trong là sự cảm thông, biết yêu thương và giúp đỡ người khác, che chở cho những hoàn cảnh khốn khổ hơn mình, cưu mang người vợ nhặt, đưa thị về nhà sống chung như vợ chồng. Bà cụ Tứ, mẹ anh Tràng là người có tấm lòng nhân văn cao cả. Bà xót xa cho con trai khi cưới vợ trong hoàn cảnh túng quẫn, dẫu vậy vẫn vui vẻ chấp nhận người con dâu mới bên mâm cơm đạm bạc nhưng đầm ấm, cùng nhau hy vọng vào một cuộc sống tương lai. “Lắm lúc tôi thấy văn chương là một thứ đạo, đạo làm người, như một thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người với con người, đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái.” – Kim Lân Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm 1945 thật xúc động như Vợ nhặt của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện, khiến cho cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp được tỏa sáng. Kim Lân và những thú chơi độc đáo Không chỉ là người kĩ tính trong văn chương, Kim Lân còn có những thú chơi tao nhã, kỳ công đến sốt ruột mà các con ông khi kể lại về cha mình cũng đều thừa nhận. Ông đặc biệt yêu hoa, nhất là các loại hoa lan, hoa chi mai, hoa nguyệt bạch. Những chậu hoa thường được ông tự làm bằng xi măng rất cầu kỳ và trang trí làm sao trông cho nó phải “cổ cổ” một chút. Kim Lân có thú chơi hoa khác với mọi người, mê cây có dáng tự nhiên, không gò ép. Vậy nên ông ghét lời khuyên của các chuyên gia là phải uốn éo, tạo thế, bắt bẻ cây vào những thế mình thích. Chơi chim cảnh cũng là một trong các niềm vui thường thấy của người văn sĩ đất Kinh Bắc. Mấy ngày trời ông mất ăn mất ngủ vì sơ ý làm mất con chim sẻ lửa có bộ lông màu huyết dụ yêu quý được một người bạn tặng. Rồi nhà văn còn thích cả cá cảnh, tự mình làm lấy chiếc bể cá và luôn đặt nó trên chiếc tủ nhỏ giữa nhà, chăm bẵm những chú cá nhỏ tận tình như chăm đàn con của mình vậy, rên rỉ xót xa như bị ai đánh khi lỡ tay làm rơi bể cá quý. Người ta cũng biết Kim Lân có sở thích chơi đồ cổ, sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau, đều là những thứ tinh túy. Dù rất yêu quý “ông bạn vàng” Nguyễn Tuân nhưng văn sỹ vẫn thấy đau lòng khi phải tặng bạn một món đồ trong bộ sưu tập của mình. Có một giai đoạn ông mê áo bò, thích kiểu áo bò cổ tròn, có mấy nút ngang như áo của người dân tộc miền núi. Ông còn “khoái” điện thoại di động, được đổi cái điện thoại cũ sang cái điện thoại mới hiện đại, nhiều chức năng hơn cũng là một niềm vui lớn của Kim Lân. Sở thích của nhà văn đều độc đáo và tao nhã, ông tìm thấy cái đẹp của đời sống trong những thứ tưởng chừng nhỏ bé nhất và ít khi để chúng phiền lụy người thân trong gia đình. Ở mỗi thú vui dù rất nhỏ, ông đều tìm ra triết lý sống và suy ngẫm về cuộc đời. Ông quan niệm, chơi gì thì cũng phải đi đến tận cùng cái “thú” của nó, không được nửa vời, không được theo đuôi, bắt chước. Một diễn viên xuất sắc của nền điện ảnh Việt Nam Sau người bạn thân Nguyễn Tuân, Kim Lân là một trong những nhà văn có nhiều cơ duyên với điện ảnh nhất. Từ thời thiếu niên, ông đã bộc lộ năng khiếu nghệ thuật, có thể đóng nhiều thể loại từ hài kịch đến kịch thơ, đặc biệt là các vai diễn phim truyện để đời. Nhà văn Kim Lân khiến người xem ấn tượng bởi vai Pụ Pạng trong phim Vợ chồng A Phủ của đạo diễn Mai Lộc và Hoàng Thái, sự ma quái lẫn đớn hèn với cảnh Pụ Pạng “phê phê”, mắt lim dim bên bàn đèn, thào thào “Cứ hút đi, đứa chịu tiền phạt phải trả, đừng lo”. Chính nhà văn Tô Hoài, tác giả của kịch bản phim còn liếc Kim Lân, nháy mắt mỉm cười khoái chí và nói “Ông còn làm cái tay Pụ Pạng sống động hơn cả kịch bản của tôi nữa đấy”. Trong phim Chị Dậu, Kim Lân vào vai Lý Cựu, một người tính toán sổ sách với ngoại hình toát lên vẻ thú vị. Đạo diễn phim đã rất hài lòng khi nhà văn lột tả thành công nhân vật này với bản chất ích kỷ, nhỏ nhen, ti tiện, luồn trên, nạt dưới vô cùng đáng ghét. Lão Hạc thì là một vai xuất sắc nhất của ông, có lẽ với ngoại hình, gương mặt khắc khổ, cùng diễn xuất chân thực người khiến người xem bị xúc động mạnh. Lão Hạc thành công chính là có sự phối hợp diễn ăn ý giữa chủ và “cậu Vàng”, lấy đi biết bao nước mắt của khán giả. “Không quá một chút nào, bằng vai Lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy, cụ Kim Lân xứng đáng là nhà văn đóng phim hay nhất mọi thời đại ở ta từ xưa đến nay. Vai Lão Hạc, cụ đóng cứ như không. Tài ơi là tài…” – nhà biên tập Phạm Ngọc Tiến Ngoài những vai diễn để đời kể trên, ông còn xuất hiện trong các bộ phim điện ảnh khác như kịch thơ Kiều Loan của Hoàng Cầm, ông lão già Tàu phim Con vá, vai Cả Khiết phim Cái tủ chè của Vũ Trọng Can, cụ lang Tâm trong Hà Nội 12 ngày đêm. Kim Lân tuy không học diễn xuất ngày nào nhưng nhập vai hết sức ngọt ngào và tròn trịa, có chiều sâu tâm lý. Đó là sự lắng đọng tinh tế, đi đến tận cùng nỗi niềm tâm trạng của con người, điều ấy đã làm nên một vị thế riêng của Kim Lân trong kịch trường và phim trường. Kim Lân là một nhà văn lịch lãm, thấu hiểu bài học làm người. Thành công của ông ngoài ý thức nghiêm túc về lao động nghệ thuật thì chủ yếu là do năng khiếu bẩm sinh, vốn sống tự nhiên trong một con người lớn lên nơi thôn quê đồng ruộng. Tiểu Mai Đề bài Nêu Những nhận định về tác phẩm Vợ nhặt 1. Nhận định 1 “Ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân chú tâm miêu tả kĩ lưỡng hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân 1945.”Bạn đang xem Những nhận định về tác phẩm Vợ nhặt hay nhất 2. Nhận định 2 “ Ở tác phẩm này, nhà ăn chủ yếu hướng vào thể hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của những người dân nghèo sau cái bề ngoài đói khát, xác xơ của họ.” 3. Nhận định 3 “Ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân chú tâm miêu tả kĩ lưỡng hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân 1945”. 4. Nhận định 4 “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Dẫn theo Hoài Việt – Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, 5. Nhận định 5 “Chỉ với ba truyện Vợ Nhặt, Làng, Con chó xấu xí… Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam”. 6. Nhận định 6 “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn.” 7. Nhận định 7 “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Kim Lân Ngoài ra, các em có thể cùng tìm hiểu thêm các bài văn mẫu về tác phẩm Vợ nhặt dưới đây nhé! 1. Đề bài 1 Có ý kiến cho rằng “ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân chú tâm miêu tả kĩ lưỡng hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân 1945. Ý kiến khác thì nhấn mạnh Ở tác phẩm này, nhà văn chủ yếu hướng vào thể hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của những người dân nghèo sau cái bề ngoài đói khát, xác xơ của họ”. Từ cảm nhận của mình về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên. Bài văn mẫu Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại 1954, nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện. Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người – một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người, biết yêu thương, biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia trình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua”. Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế. Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì đã làm thị biến đổi như thế. Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo dài đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo đã rách bợt” mà “lòng đầy thương xót”. Bà thiết nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đây – ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy. Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó. “Cái đẹp cứu vớt con người” Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy. 2. Đề bài 2 Chứng minh câu nói “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống” qua tác phẩm Vợ nhặt Bài văn mẫu Nhắc đến năm 1945, hẳn chúng ta nhớ ngay đến sự kiện lịch sử trọng đại và niềm vui của ngày khai sinh đất nước. Nhưng cũng xót xa nhớ về những đồng bào đã ra đi trong nạn đói khủng khiếp năm ấy. Trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân đã chọn bối cảnh những ngày cái đói bủa vây con người, nhưng ông không trực tiếp viết về cái đói đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào. Ông viết về những người đói, nhưng “họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống” với niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người và ước muốn sự sống sẽ được gieo mầm từ cái chết. Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bây giờ – người chết đói như ngả rạ – mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ – tên Tràng – độc thân, chỉ với mấy câu “hò chơi cho đỡ nhọc”, đã có được cô “vợ nhặt” – đang sống dở, chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh “tối sầm lại vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm. vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. “Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. ảnh Đọc tác phẩm Vợ nhặt. Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngã rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc” còn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ – những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rủ, không buồn nhúc nhích… “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa” Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn “Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt hắn thì sáng lên lấp lánh”. Đọc đến đây, ta không thể không nghỉ đến những trang bi kịch của Sexpia, Molie hay Stăng-đan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là “hiện thân của sự ngu đốt” như Mác nói, mà trở nên sự cao cả “đẹp tươi lạ thường”. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh. Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một truyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng “Họ bàn tán.. họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng dạng dỡ hẳn lên”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói trong phút chốc khi Tràng cùng với cô “Vợ nhặt” đi về làng, cái chết, sự ảm đạm âm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống. Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau, sống qua được cái thì này không”. Tuy nhiên, đó không phải là nổi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe doạ sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên trên cái chết. Khuôn mặt “rạng rỡ” của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều. Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay!. Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng vô nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn “không chuyện trò gì”. Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên ” gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây. khi cùng người “Vợ nhặt” về nhà, Tràng đã bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc “hôn nhân” của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống. Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mất của họ không kém phần thảm hại căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị vây bởi sự nghèo đói chết sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết.. Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn. “Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu… Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng”, Tràng thấy mình có sự đổi khác “Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ như không phải…”. Chuyện được “vợ nhặt” của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi “sáng hôm sau đó”, dường như tất cả sự chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc “Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, -phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này”… Có thể nói, đó là biểu hiện cao nhât của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây. Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏn, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật “khônng bình thường”! Nhưng không, ngòi bút Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật cùa mình bị tha hoá, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khí cái thúng”. Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ ngồi của chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân? Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn “trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiển hậu, đúng mực…” Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp đúng như bản chất liền trở lại với chị, ấy cũng là lúc chị nghĩ đến cuộc sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh… Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót “Chao ôi, người la dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn “Tràng ạ. Khi nào có liền ta mua lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bên kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảng đi ngoảng lại, chà mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…” Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đoạ, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần người đáng quý trong mỗi con người. Cái phần người ấy sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này. Sẽ lại thiếu sót nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đâu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đẫm chất nhân văn cao cả đã trở thành một tác phẩm xuất sắc của nền văn học cách mạng. Hiểu và cảm thông tận cùng người với người nghèo khổ ông xứng đáng là nhà văn của nông thôn và người nông dân. Vợ nhặt đã ươm được mầm sống, nó vươn lên từ cái chết. Tác phẩm sẽ còn mãi trong lòng người đọc như một bài ca về khái vọng sống mãnh liệt của con người Việt Nam. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 12, Ngữ Văn 12

nhận định về kim lân